Một báo cáo mới công bố của VASE dẫn số liệu thống kê của Hải quan cho thấy, tính đến hết tháng 5/2019, xuất khẩu (XK) thủy sản của cả nước đạt 3,19 tỷ USD, giảm 1% so với cùng kỳ năm ngoái. Dự báo kim ngạch XK thủy sản nửa đầu năm nay sẽ đạt khoảng 3,95 tỷ USD, giảm gần 1% so với cùng kỳ năm 2018.
Cụ thể, XK tôm tiếp tục giảm, nhưng mức giảm đã ít hơn so với năm trước. Trong tháng 5, XK tôm giảm 3,7% và lũy kế 5 tháng đầu năm, XK giảm 13,6% đạt 1,1 tỷ USD, trong đó tôm chân trắng đạt 752 triệu USD, giảm 15%, tôm sú đạt 270 triệu USD, giảm 15%. Ước XK tôm 6 tháng đầu năm sẽ đạt 1,45 tỷ USD, giảm 11%.
Trong khi đó, XK cá tra đang có xu hướng đảo chiều so với năm trước, bắt đầu sụt giảm trong những tháng gần đây, trong tháng 5 giảm 6% và 5 tháng đầu năm giảm gần 1% đạt gần 790 triệu USD. Ước XK cá tra 6 tháng đầu năm đạt 995 triệu USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
XK các mặt hàng hải sản như cá ngừ, mực-bạch tuộc, cá biển khác trong 5 tháng đầu năm vẫn tăng so với cùng kỳ năm ngoái, tuy nhiên trong vài tháng gần đây có xu hướng giảm. XK mực-bạch tuộc giảm 12% trong tháng 5 và kết quả 5 tháng đầu năm vẫn tăng nhẹ 1,7% đạt 243 triệu USD, trong khi XK cá ngừ tăng 22% đạt 299 triệu USD. XK các loại cá khác tăng 16% đạt 627 triệu USD. Dự báo 6 tháng đầu năm, XK cá ngừ đạt khoảng 362 triệu USD, tăng 20%, mực bạch tuộc đạt trên 297 triệu USD, giảm nhẹ 0,3% và cá biển tăng 15% đạt 753 triệu USD.
VASEP cho biết, trong 5 tháng đầu năm, XK thủy sản sang EU giảm 11% do tác động của thẻ vàng IUU, sang Trung Quốc và HK giảm 5% vì nước này siết chặt kiểm soát NK về chất lượng cũng như hoạt động thương mại mậu biên, XK sang Hàn Quốc giảm 2%. Tuy nhiên, XK sang Nhật Bản vẫn tăng khả quan 11% đưa nước này lên vị trí thị trường NK thủy sản lớn nhất, sang Mỹ tăng 3,4% và các thị trường khác cũng tăng.
6 tháng cuối năm, XK thủy sản sang EU có thể khả quan hơn sau khi hiệp định EVFTA có hiệu lực, tuy nhiên, thẻ vàng IUU vẫn là mối quan ngại, tác động giảm XK hải sản sang thị trường này. XK sang thị trường Mỹ và Nhật Bản có thể sẽ tăng trưởng tốt hơn, nhất là với mặt hàng tôm. Thị trường Trung Quốc sẽ không có dấu hiệu tích cực hơn ít nhất là trong nửa cuối năm, do vậy XK sang thị trường này dự kiến sẽ vẫn giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái.
Dự báo XK thủy sản 6 tháng cuối năm sẽ hồi phục với mức tăng trưởng khoảng 5% đạt trên 5 tỷ USD, đưa tổng XK cả năm lên khoảng 9 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2018.
Ước XK thủy sản 6 tháng đầu năm 2019 (triệu USD) | ||
Sản phẩm | T1-T6/2019 | So với cùng kỳ 2018 (%) |
Tôm các loại | 1.454,982 | -11,1 |
trong đó: - Tôm chân trắng | 965,967 | -12,1 |
- Tôm sú | 341,536 | -12,0 |
Cá tra | 995,328 | -0,7 |
Cá ngừ | 362,031 | 19,6 |
trong đó: - Cá ngừ mã HS 16 | 149,461 | 4,0 |
- Cá ngừ mã HS 03 | 212,570 | 33,8 |
Cá các loại khác (trừ cá ngừ, cá tra) | 753,254 | 15,0 |
Nhuyễn thể | 345,287 | -0,4 |
trong đó: - Mực và bạch tuộc | 297,587 | -0,3 |
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ | 44,809 | -2,5 |
Cua, ghẹ và Giáp xác khác | 64,305 | 42,0 |
TỔNG CỘNG | 3.954,291 | -0,9 |
Mai Chi