Lý do được Bộ Tài chính đưa ra là khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô trong nước, khắc phục tình trạng doanh nghiệp chỉ hưởng ưu đãi thuế mà không đầu tư mở rộng sản xuất tại Việt Nam.
Qua rồi thời hưởng ưu đãi nhưng không thực hiện
Tại dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ, Bộ Tài chính đề xuất tăng thêm thời gian hưởng thuế ưu đãi nhập linh kiện cho doanh nghiệp ô tô trong nước đến hết năm 2022.
Trong đó ưu đãi thuế suất 0% đối với mặt hàng linh kiện nhập khẩu phục vụ các doanh nghiệp lắp ráp trong nước mà phía doanh nghiệp Việt chưa chủ động sản xuất được.
Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ kéo dài biệt đãi thuế đối với linh kiện nhập khẩu (Ảnh minh họa).
Bộ Tài chính cho rằng chính sách này nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô trong nước.
Về sản lượng chung và riêng tối thiểu cho hãng xe, mẫu xe để được hưởng ưu đãi chính sách, năm 2021 theo Nghị định 57/2020/NĐ-CP của Chính phủ, các mẫu xe đều phải có sản lượng chung hơn 23.000 chiếc/năm và sản lượng riêng tối thiểu cho mẫu xe là hơn 9.000 chiếc/năm.
Trước tình hình Covid-19 và khó khăn của ngành, Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), các doanh nghiệp lớn kiến nghị Bộ Tài chính bỏ quy định sản lượng tối thiểu để hỗ trợ doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính bác bỏ với lý do để khắc phục tình trạng doanh nghiệp chỉ hưởng ưu đãi thuế mà không đầu tư mở rộng sản xuất.
Quy định về sản lượng chung và riêng tối thiểu cho các hãng xe được Bộ Tài chính đưa ra (Ảnh chụp màn hình).
Trong dự thảo sửa đổi nghị định nói trên, Bộ Tài chính rằng việc yêu cầu đáp ứng điều kiện về sản lượng là cần thiết để đảm bảo các doanh nghiệp tham gia Chương trình ưu đãi phải đầu tư và đảm bảo quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, lắp ráp xe.
Bộ chỉ sửa đổi quy định này cho phù hợp thực tế nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 hiện nay.
Bộ cũng đã đề xuất sửa một số nội dung như về kỳ xét ưu đãi, hiệu lực áp dụng, điều kiện khí thải để thống nhất với quy định về điều kiện sản lượng và thống nhất với các quy định về lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải tại các văn bản của Thủ tướng Chính phủ.
Văn bản của Bộ Tài chính nhắc lại đánh giá của Bộ Công Thương về việc triển khai Chương trình ưu đãi thuế là đã hỗ trợ cho thị trường ô tô tăng trưởng ổn định, duy trì được sản xuất với sức cạnh tranh về giá đối với các xe ô tô nhập khẩu, đồng thời, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, phù hợp với Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam giai đến năm 2025, tầm nhìn 2035.
Áp lực sản lượng chung năm 2021 rất lớn hơn 23.000 chiếc cho doanh nghiệp và trên 9.000 chiếc cho từng mẫu riêng. Tuy nhiên, các hãng xe cần phải quen dần với điều này vì đây là điều kiện để họ được hưởng ưu đãi (Ảnh minh họa).
Theo nhận định bước đầu của Bộ Tài chính, sau khi Chương trình được ban hành, một số doanh nghiệp đã tiếp tục sản xuất, lắp ráp một số dòng xe mà trước đó đã dừng sản xuất tại Việt Nam (các liên doanh chỉ nhập khẩu, phân phối từ các nhà máy trong khu vực). Đồng thời, một số doanh nghiệp đã đầu tư thêm trang thiết bị để tăng công suất và năng lực sản xuất.
Một số doanh nghiệp đang có kế hoạch tiếp tục đầu tư thêm các dây chuyển sản xuất mới tại Việt Nam và dự kiến chuyển một số hoạt động từ các nước trong khu vực về Việt Nam nếu như Chương trình ưu đãi thuế được tiếp tục áp dụng sau 2022.
Trên thực tế, 6 tháng qua, theo báo cáo doanh số bán hàng của VAMA và một số doanh nghiệp lớn, một số hãng xe đảm bảo được chỉ tiêu sản lượng chung tối thiểu 6 tháng 11.500 chiếc.
Đơn cử như Toyota đạt được hơn 14.600 xe, Kia đạt hơn 21.500 chiếc,
Mazda đạt hơn 13.300 chiếc, Hyundai Thành Công hơn 29.000 chiếc và VinFast đạt hơn 15.900 chiếc.
Áp lực doanh số cuối năm cực lớn
Tuy nhiên, về sản lượng riêng tối thiểu, 6 tháng qua nhiều mẫu xe không đạt được theo quy định (4.500 chiếc).
Cụ thể, trên thị trường, chỉ 6 mẫu đạt trong đó Toyota chỉ có Vios đạt sản lượng riêng tối thiểu khi doanh số hơn 9.600 chiếc; Trường Hải có Kia Cerato đạt (hơn 4.700 chiếc), Mazda CX5 (4.800 chiếc); Hyundai Thành Công có 3 mẫu đạt là i10 (6.300 chiếc), Accent (hơn 9.900 chiếc) và SantaFe (hơn 5.400 chiếc); VinFast có Fadil đạt (hơn 10.100 chiếc).
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, bước đầu việc bỏ thuế nhập linh kiện giúp các mẫu xe từng bỏ đi khỏi Việt Nam, mẫu xe nhập quay trở lại lắp ráp tại Việt Nam (Ảnh: Việt Hưng).
Nhìn lại năm 2020, hầu hết hãng xe tại Việt Nam cũng đạt sản lượng chung tối thiểu theo quy định hơn 13.000 chiếc/năm. Các "ông lớn" như Toyota, Hyundai Thành Công, Thaco, VinFast đều vượt khá xa so với sản lượng chung quy định. Trong đó, nhiều mẫu vượt sản lượng riêng tối thiểu theo quy định (hơn 5.200 chiếc).
Tuy nhiên, năm nay, sản lượng chung tối thiểu khá cao, là 23.000 chiếc/năm, tăng 10.000 chiếc. Sản lượng riêng tối thiểu/mẫu xe năm nay lên mức 9.000 chiếc/năm, tăng hơn 3.800 chiếc so với năm 2020. Mức tăng cao có thể khiến nhiều hãng xe, mẫu xe trong nước không đạt yêu cầu về sản lượng.
Bởi tính đến tháng 6, mới chỉ có 6 mẫu xe đạt sản lượng riêng tối thiểu 6 tháng, 6 tháng còn lại, tháng 7 và tháng 7 lại dính đến Covid-19 nên rất khó đạt sản lượng cao, tháng 9, nếu dịch Covid-19 được kiểm soát, giãn cách xã hội tại nhiều tỉnh thành được xóa bỏ thì thị trường mới có thể phục hồi. Áp lực doanh số, sản lượng cuối năm rất lớn, muốn vậy bắt buộc các hãng phải giảm giá để đẩy doanh số.
Nguyễn Tuyền