Fica

Mừng và lo với RCEP!

Phạm Chi Lan
Phạm Chi Lan

Ngay từ khi biết tin Việt Nam cùng các đối tác ASEAN ký kết RCEP với 5 đối tác lớn, tôi vừa mừng nhưng cũng vừa lo và tôi lo nhiều hơn!

Phạm Chi Lan

Nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cố Thủ tướng Phan Văn Khải

Nguyên nhân là bởi vì thông qua ASEAN, Việt Nam đã ký kết FTA với nhiều quốc gia trong số 5 quốc gia kể trên nhưng Việt Nam vẫn khai thác chưa hiệu quả.

Ngoài ra, đây là hiệp định chung của ASEAN, Việt Nam ở thế phải tham gia và chúng ta phải lựa chọn các bước đi chiến lược để lấy lợi ích và hạn chế những thách thức trước mắt.

Năm 2003, qua cơ chế ASEAN +1, Việt Nam cùng các nước ký kết hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc, rồi sau này từ năm 2010, Việt Nam cùng các nước ASEAN mở rộng đối tác thương mại với 5 đối tác khác lớn khác bao gồm Nhật, Úc, Ấn Độ, Hàn Quốc, New Zealand..

Riêng với Nhật Bản, Việt Nam đã có riêng Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) với những thuận lợi hơn nhiều so với việc chúng ta cùng các nước ASEAN khi ký kết FTA với Nhật Bản.

Với Hàn Quốc chúng ta đã ký kết FTA từ năm 2016, rồi với Úc, New Zealand, đều có cơ chế thương mại tự do đa phương trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Để đánh giá, từ năm 2003 đến nay, qua các FTA song và đa phương, Việt Nam đã có những thành công về nhiều mặt. Tuy nhiên, có những vấn đề đặt ra nỗi lo cho đất nước, như việc Việt Nam khai thác thị trường của các nước khác kém hơn các đối tác họ khai thác thị trường của Việt Nam.

Từ khi có Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), doanh nghiệp Thái Lan khai thác rất tốt thị trường Việt Nam. Họ nhìn nhận cơ hội lớn nhất trong AEC là thị trường Việt, nơi hàng rào phi thuế quan không đủ mạnh và đội ngũ doanh nghiệp bản địa yếu về cạnh tranh.

Với Hàn Quốc, Trung Quốc, chúng ta đều nhập siêu hàng hóa của họ lớn và gia tăng theo mỗi năm. Ngay cả chiều xuất khẩu từ Việt Nam đi các nước này, kết quả cũng đều là do doanh nghiệp Hàn Quốc, Trung Quốc ở Việt Nam xuất khẩu ngược trở về là chính.

Tựu chung, kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, xuất khẩu Việt Nam tăng cả lượng và giá trị, nhưng có tỷ trọng rất lớn giá trị gia tăng là nằm trong tay nước ngoài. Điều này cho thấy doanh nghiệp Việt Nam rất yếu và chưa khai thác được các thị trường khác và cũng chưa bảo vệ được thị trường nội địa. Vì vậy, càng mở cửa, hàng nước ngoài càng tràn vào nhiều hơn, các nhà sản xuất, làm dịch vụ và đặc biệt là nông dân sẽ đối diện với nhiều khó khăn ở địa bàn của mình trước khi nghĩ xuất được đi thế giới.

Trong RCEP, thị trường mở rộng, các quy định về xuất xứ được nới lỏng hơn, điều này được cho là có lợi cho các nước ASEAN.

Tuy nhiên, tôi e là những thuận lợi mới được doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hoặc chỉ các nước khai thác và tận hưởng được thôi. Nếu chúng ta không nhìn thấy nhược điểm của mình, để điều đó diễn ra, RCEP cũng không quá đáng mừng cho Việt Nam. RCEP là sân chơi rộng hơn, lớn hơn cho rất nhiều nước thành viên, nhưng nó vẫn sẽ rơi vào quy luật, ai mạnh hơn, giỏi hơn, biết tính toán hơn sẽ thắng.

Thậm chí, nếu so sánh tương đối, người thắng ít cũng có thể sẽ là người thua cuộc. Bởi chỉ hơn so với mình ở thời gian trước mà thua xa so với các đối tác khác thì không phải là lợi ích tìm kiếm được.

Việt Nam là nước xuất khẩu nông nghiệp lớn của thế giới, đứng thứ 15 trong số các nước xuất khẩu nông sản, nhưng những sản phẩm mà thế giới biết đến Việt Nam chủ yếu đều ở dạng thô sơ, giá trị gia tăng đều của nước ngoài. Nhiều sản phẩm vốn dĩ là của nước ta nhưng muốn vào được thị trường chính ngạch, siêu thị của nước khác, phải gắn nhãn mác hàng hóa của nước khác.

Trong RCEP, tôi có đọc khá chi tiết về một số điều khoản đầu tư, trong đó có liên quan đến lĩnh vực an ninh quốc phòng, ta vẫn bảo lưu quyền khước từ chủ động. Đồng thời, đối với một số ngành đặc thù, trong nước dư thừa rồi như xi măng, sắt thép, chỉ cho phép sản xuất để xuất khẩu. Đây có lẽ là cái được nhất và chứng tỏ các nhà đàm phán của Việt Nam đã tính đến rồi.

Tuy nhiên, phải nói là trong quan hệ quốc tế, nhân tố kinh tế ngày càng bị chi phối, ảnh hưởng bởi yếu tố chính trị, tranh giành quyền lực của các nước lớn, thân phận của các nước nhỏ, yếu thế luôn rơi vào các thách thức. Việt Nam và ASEAN nằm cạnh Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và một cường quốc kinh tế nên phải đặt vấn đề vừa hợp tác vừa cạnh tranh.

Với Trung Quốc, họ có chiến lược gia tăng ảnh hưởng, qua chiến lược "vành đai, con đường" mua hàng loạt các cảng biển, xây dựng đường sắt, tham gia vào chuỗi kết nối đường xuyên Á... để gia tăng sự ảnh hưởng, phụ thuộc về kinh tế, chính trị với các nước ASEAN, nơi được xem như cửa ngõ vào Đông Á.

Lâu nay, Việt Nam cũng như một số nước như Indonesia, Malaysia vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc ở khía cạnh nguyên nhiên liệu. Thậm chí khi một số nước ASEAN không còn được vay vốn ODA ưu đãi, cần vốn Trung Quốc thì phải rạch ròi lợi ích kinh tế, tính hiệu quả và đặc biệt cần cảnh tỉnh trước sự cài cắm lợi ích chính trị, trong các dự án kinh tế phức tạp.

Trước đây, vốn Trung Quốc và các đối tác liên quan của họ vào Việt Nam rất ít, chủ yếu là qua vốn tài trợ, liên Chính phủ hoặc do các tổ chức quốc tế như các dự án về Ethanol, đạm - phân bón, rồi đường sắt Cát Linh - Hà Đông. Tuy nhiên, hiện nay họ khôn ngoan hơn, trực diện hơn bằng cách mua lại các doanh nghiệp Việt, đầu tư mở nhà máy.