Ông Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên Trường Chính sách Công
và Quản lý Fulbright Việt Nam
Sau những tháng đầu năm âm ỉ, cuộc chiến thương mại của Mỹ với Trung Quốc nổ ra hồi đầu tháng 7, khi Mỹ áp thêm mức thuế 25% với 34 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. 818 dòng sản phẩm bị áp thêm thuế mới chỉ là đợt 1 của cuộc chiến thương mại.
Đợt 2 sẽ mở rộng danh mục lên hàng hóa với tổng giá trị 50 tỷ USD. Không dừng ở đó, chính quyền Mỹ còn đe dọa sẽ áp thêm thuế suất 10% với 200 tỷ USD hàng hóa từ Trung Quốc, đưa tổng giá trị hàng hóa chịu thuế trừng phạt lên đến 50% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng từ quốc gia này vào Mỹ.
Căn cứ chính thức cho việc áp thuế trừng phạt là những cáo buộc về việc Trung Quốc sử dụng biện pháp phi kinh tế để chiếm lĩnh công nghệ của Mỹ được Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) đưa ra trong Báo cáo có tên gọi là Section 301.
Nếu nhìn vào con số 34 tỷ USD có thể thấy là tỉ lệ quá ít nếu so với tổng cộng 505 tỷ USD Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc trong năm 2017. Nghiên cứu kỹ hơn, các mặt hàng chịu thuế chủ yếu là hàng trung gian như máy móc cơ khí, máy móc thiết bị điện và điện tử, còn hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 1%. Mức độ ảnh hưởng trực tiếp đối với kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ là không nhiều.
Dựa vào số liệu thống kê kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ, trong 818 dòng sản phẩm mà Trung Quốc chịu thuế trừng phạt đợt này, các mặt hàng tương tự của Việt Nam xuất sang Mỹ năm 2017 chỉ có trị giá 1,2 tỷ USD và 5 tháng đầu năm 2018 cũng chỉ đạt 545 triệu USD.
Vì thế, cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng gia tăng xuất khẩu sang Mỹ khi hàng Trung Quốc chịu thuế là không đáng kể.
Bên cạnh đó, vì những sản phẩm bị đánh thuế là hàng trung gian gồm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện vận tải… chứ không phải hàng tiêu dùng, vì thế nếu Trung Quốc không xuất được sang Mỹ thì cũng khó tìm đường đến châu Á, trong đó có Việt Nam.